|
 Thuật ngữ VietnamBiz
Thời sự

Hơn 93% số bằng độc quyền sáng chế tại Việt Nam được cấp cho người nước ngoài

13:46 | 21/07/2020
Chia sẻ
Năm 2017 là năm Việt Nam cấp nhiều bằng độc quyền sáng chế nhất, song số bằng độc quyền sáng chế dành cho các chủ thể nước ngoài là 1.636, chiếm đến hơn 93% số bằng được cấp trong năm.

Đó là thông tin được chia sẻ tại hội thảo “Thương mại hoá kết quả nghiên cứu khoa học, bài học từ các nước, hiện trạng và đề xuất mô hình thương mại hoá kết quả nghiên cứu khoa học” do Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ TP HCM (Sihub) tổ chức ngày 20/7.

Theo số liệu thống kê, số đơn đăng kí sáng chế tại Việt Nam đã tăng gần gấp đôi trong giai đoạn từ năm 2007 (2.860 đơn) đến 2017 (5.382 đơn). 

Tuy nhiên, đến gần 90% chủ đơn là các tổ chức, cá nhân nước ngoài, trong khi chủ đơn Việt Nam chỉ chiếm con số rất khiêm tốn, chỉ trên dưới 10%.

Bà Nguyễn Minh Huyền Trang, Phó Giám đốc Trung tâm Sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ (Đại học Quốc gia TP HCM) cho biết năm 2017 là năm Việt Nam có nhiều bằng độc quyền sáng chế được cấp nhiều nhất - 109 bằng (chiếm chưa đến 7% số bằng được cấp trong năm). 

Trong khi đó, số bằng độc quyền sáng chế cấp cho các chủ thể nước ngoài là 1.636 (chiếm đến hơn 93% số bằng được cấp trong năm).

Nếu so sánh với một số nước trong khu vực Asean+ 3 thì Việt Nam đứng cuối và cách biệt khá xa với Thái Lan, Singapore. Theo tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới, năm 2017, tổng số đơn sáng chế và giải pháp hữu ích của Thái Lan, Malaysia và Việt Nam lần lượt là 3.133, 1.439 và 669.

Tại TP HCM, nơi được xem là trung tâm khoa học công nghệ cả nước, hiện các sáng chế được thương mại hóa tương đối khả quan. Tuy nhiên, việc này chỉ mới tập trung tại một số trường như: Đại học Bách khoa (Đại học Quốc gia TP HCM), Đại học Nông Lâm, Đại học Công nghiệp TP HCM…và sức lan tỏa thương mại hóa cũng chưa đạt kết quả cao.

ThS Huyền Trang cho rằng, quá trình chuyển giao công nghệ giữa đại học - doanh nghiệp còn nhiều bất cập và là vấn đề cấp thiết trong phát triển nghiên cứu khoa học.

Việc triển khai cơ chế bảo hộ, quản lí, khai thác tài sản trí tuệ trong các viện, trường còn nhiều bấp cập, chưa đạt yêu cầu. Nhiều trường hiện chưa thành lập bộ phận quản trị tài sản trí tuệ hoặc có nhưng hoạt động thiếu hiệu quả; các trường thiếu những công trình, sản phẩm khoa học công nghệ có tính ứng dụng cao.

Trong khi đó, khi công bố kết quả nghiên cứu, đa số các nhà khoa học lựa chọn hướng công bố bài báo hơn là lựa chọn thực hiện đăng kí sáng chế.

Hơn 93% số bằng độc quyền sáng chế cấp tại Việt Nam cho người nước ngoài - Ảnh 1.

Bà Nguyễn Minh Huyền Trang, Phó Giám đốc Trung tâm Sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ chia sẻ tại hội thảo. Ảnh: Như Huỳnh.

Theo các chuyên gia, ở các nước tiên tiến, hoạt động nghiên cứu được xem là kim chỉ nam, giảng viên, nhà khoa học lấy hoạt động nghiên cứu làm nguồn thu chủ yếu. Trong khi đó, tại Việt Nam, ở các trường đại học, việc dạy học vẫn là nhiệm vụ hàng đầu.

Trong những năm gần đây, chủ trương áp dụng cơ chế tự chủ của Chính phủ đối với các trường đã thúc đẩy các cơ sở giáo dục bậc cao tiệm cận với cơ chế thị trường và các trường phải quan tâm đến việc tạo được các sản phẩm, dịch vụ tốt cho thị trường từ nguồn lực sẵn có.

Tại Hội thảo, các chuyên gia trong nước và quốc tế đã chia sẻ kinh nghiệm và mô hình thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học của Hàn Quốc, Đức, Australia… và hiện trạng hoạt động thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học ở Việt Nam.

Tiến sĩ Thomas Guidat, Trung tâm Quan hệ doanh nghiệp và chuyển giao công nghệ (Đại học Việt - Đức) cho biết: "Viện Fraunhofer-Gesellschaft (Đức) thực hiện mô hình nghiên cứu ứng dụng tiện ích trực tiếp cho doanh nghiệp tư nhân và công cộng".

So với các trường đại học và viện nghiên cứu khác, Viện Fraunhofer-Gesellschaft chủ yếu tập trung nghiên cứu theo những yêu cầu từ doanh nghiệp (theo hợp đồng), các dự án đầu tư từ Chính phủ hoặc dự án đầu tư từ chính trường, viện nghiên cứu.

Các trường, viện tham gia hệ thống của Fraunhofer sẽ làm việc chung, nếu cùng một lĩnh vực hoặc đang nghiên cứu cùng một đề tài sẽ thúc đẩy sự phát triển của mô hình hợp tác nghiên cứu này.

Hơn 93% số bằng độc quyền sáng chế cấp tại Việt Nam cho người nước ngoài - Ảnh 2.

TS Thomas Guidat, Trung tâm Quan hệ doanh nghiệp và chuyển giao công nghệ (Đại học Việt - Đức) chia sẻ mô hình viện nghiên cứu tại Đức. Ảnh: Như Huỳnh.

Đồng quan điểm, ông Huỳnh Kim Tước, Giám đốc điều hành Sihub cho biết, hiện các nước có khá nhiều mô hình về chuyển giao và thương mại hóa kết quả nghiên cứu. 

Đơn cử mô hình công ty đại diện chuyển giao công nghệ của trường đại học có thể thay thế hoàn toàn vai trò của trung tâm chuyển giao công nghệ tại một số trường đại học và mô hình này cũng có thể đảm nhận vai trò của vườn ươm công nghệ.

Trong trường hợp trường đại học đã được trung tâm chuyển giao công nghệ và vườn ươm công nghệ, vai trò chuyển giao công nghệ của Công ty sẽ tập trung ở khâu thương mại hóa kết quả nghiên cứu.

"Các nhà nghiên cứu cần nâng cao nhận thức về quyền và trách nhiệm với kết quả nghiên cứu, đồng thời định hướng nghiên cứu theo thị trường. 

Trong khi đó, trường đại học cần hướng đến định vị vai trò nguồn thu từ nghiên cứu trong mục tiêu hoạt động, xây dựng văn hóa sáng tạo và kinh doanh khoa học công nghệ trong nhà trường. Thiết kế mô hình phù hợp cho chuyển giao, thương mại hóa kết quả nghiên cứu và bổ sung chức năng doanh nghiệp và chức năng tài chính", ông Huỳnh Kim Tước đề xuất.

Tại hội thảo, Sihub cũng đã kí kết hợp tác triển khai hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo với nhiều đối tác như Tổ chức Ươm tạo doanh nghiệp Hàn Quốc, Sở Khoa học và Công nghệ Bình Định, Trung tâm Sở hữu trí tuệ và Chuyển giao công nghệ, Trung tâm Thông tin Ứng dụng khoa học và công nghệ Bình Định, Trung tâm phân tích chất lượng Bình Định…

Như Huỳnh